Brand Marketing - Tiếp thị Thương hiệu là gì?

Có rất nhiều người vẫn còn chưa nắm rõ các định nghĩa trong marketing và thương hiệu, dẫn đến hiểu sai về các khái niệm. Để giúp bạn đọc hiểu rõ các khái niệm này một cách chính xác nhất, vnBrand trích đăng các định nghĩa về brand và marketing của chuyên gia thương hiệu Võ Văn Quang đã trả lời cho các học viên và khách hàng mà ông đã từng tham dự.

 

Brand Marketing là gì?

 
Trả lời: Brand Marketing là khuynh hướng chủ yếu của marketing hiện đại. Trước đây marketing chỉ chú ý đến sản phẩm, với chiến lược xoay quanh khái niệm vòng đời sản phẩm. Các lý thuyết của Philip Kotler vẫn xoay quanh khái niệm sản phẩm là chủ yếu. Trong những thập kỷ sau cùng của thế kỷ 21, các tập đoàn đa-quốc-gia hàng đầu trong lĩnh vực hàng tiêu dùng đã đi tiên phong trong mô hình marketing và quản trị lấy thương hiệu (brand) làm trung tâm của chiến lược cũng nhưng của quản trị doanh nghiệp. bản thân tôi đã bỏ ra khoảng 5 năm (1999-2003) để nghiên cứu về vấn đề này và hoàn chỉnh lý luận brand marketing (tiếp thị thương hiệu), được tóm tắc qua 20 luận điểm. Xem như đây là những nền tảng lý thuyết đầu tiên về "Brand Marketing’ tại Việt Nam vậy.
 
Cần lưu ý rằng brand marketing tái định nghĩa cả sản phẩm chứ không như sự nhầm lẫn giữa brand marketing (tiếp thị thương hiệu) và branding (xây dựng thương hiệu). Bằng luận điểm "thương hiệu chính là đỉnh cao của sản phẩm" brand marketing là hệ thống tiếp thị toàn diện nhất hiện nay (xem thêm 20 nguyên tắc lý luận của tiếp thị thương hiêu của cùng tác giả).
 

Marketing Audit là gì?

 
Trả lời: Marketing Audit (và Brand Audit) là ứng dụng lý thuyết kiểm toán trong marketing. Nói vậy thôi nhưng phương pháp kiểm toán marketing rất khác so với kiểm toán tài chính. Vì vậy chúng tôi hay gọi marketing audit là đánh giá marketing. Marketing Audit rất quan trọng vì nó là 1 trong 10 bước cơ bản của tiến trình hoạch định marketing (theo giáo sư Malcom Mc. Donald), đồng thời hầu hết các học giả có uy tín (kể cả Philip Kotler) cũng thống nhất về tầm quan trọng không thể thiếu của marketing audit trong quản trị. Nó không chỉ bổ sung những điều khiếm khuyết và hệ thống finance audit còn thiếu sót mà còn là nền tảng vững chắc cho việc hoạch định marketing định hướng thương hiệu.
Theo tôi biết, William M. Pride là người hoàn chỉnh hệ thống lý luận và quy trình marketing audit.
Bản thân chuyên gia cũng đã xây dựng mộ hệ thống brand audit day trên mô hình quản trị thương hiệu Kéo và Đẩy, và 7P marketing audit day trên mô hình 7P Marketing cũng do chính chuyên gia Võ Văn Quang xây dựng.
 

Brand Audit là gì?

 
Trả lời: Brand Audit, cũng thuộc về nhóm khái niệm marketing audit. Tuy nhiên Brand Audit thiên về việc đánh giá kết quả sau cùng hơn là đánh giá kết quả hệ thống. Brand Audit vì vậy rất dễ tiếp cận, và theo hệ thống lý luận brand marketing, brand audit là thước đo hiệu quả của tiếp thị thương hiệu. Brand Audit là một hệ thống các chỉ số đo thương hiệu (brand monitoring index), theo chuyên gia Võ Văn Quang (tác giả) có 3 nhóm chỉ số cơ bản: (1) nhóm các chỉ số nhận biết và hình ảnh thương hiệu; (2) nhóm các chỉ số phân phố và (3) nhóm các chỉ số sử dụng. Phương pháp brand audit của Võ Văn Quang day trên nền tảng của 2 mô hình cơ sở đó là (a) mô hình Kéo và Đẩy, (b) mô hình Phẫu Hình Ảnh (tạm dịch từ Brand Diagnosis, một khái niệm rất gần với brand health check và brand diagnosis cũng được gọi là Bộ Mã Gien Thương hiệu).
 
Riêng đối với nhóm các chỉ số hình ảnh thương hiệu, hiện nay vẫn còn rất ít người tiếp cận và hiểu thấu đáo phương pháp cũng như hiệu quả của nó trong quản trị.
 
 
Trả lời: hầu hết dân quản trị marketing đều được nghe nói tới atl và btl. Tuy nhiên cũng khá nhiều người nhầm lẫn 2 nhóm khái niệm này.
Above-the-line là "hệ thống tiếp thị trên ngạch" là nhóm các giải pháp tiếp thị nhắm tới người tiêu dùng (the consumer), tạo ra Lực Kéo (the Pull); Below-the-line là "tiếp thị dưới ngạch" là nhóm các giải pháp tiếp thị nhắm đến người bán (the trade) và kết quả tạo ra Lực Đẩy (the Push). Sự kết hợp hài hòa giữa above-the-line và below-the-line là tổng hòa của một chiến lược marketing hiệu quả.
 
Khái niệm above-the-line và below-the-line chỉ xuất hiện trong các mô hình quản trị thương hiệu theo lý thuyết Brand Marketing. Vì vậy đa số dân marketing chỉ nghe nói chứ chưa được biết âu cũng không phải là điều lạ.
 

Định nghĩa của Brand Marketing về Sản phẩm?

 
Trả lời: Trong hệ thống lý luận Brand Marketing, chúng tôi xây dựng lại định nghĩa về sản phẩm: "sản phẩm là một tập hợp các lợi ích". Khi mở rộng định nghĩa này chúng ta có: "hai nhóm lợi ích: nhóm lợi ích và nhóm lợi ích cảm tính". Các lợi ích này khi đáp ứng nhu cầu của khách hàng thì được gọi là "giá trị". Vì vậy khái niệm "lợi ích" là thuộc tính của sản phẩm còn khái niệm "giá trị" là thuộc tính của "thương hiệu".
 
"Một tập hợp các lợi ích (tức Sản phẩm) bao gồm các yếu tố khác biệt được công nhận, sẽ trở thành Thương hiệu". Cần lưu ý rằng trong các yếu tố khác biệt (hay yếu tố nhận diện, identity) có khái niệm thuộc về Pháp lý (Trade-mark) và các khái niệm ngoài Pháp lý nữa.
 
Khái niệm Sản phẩm là một tập hợp các Lợi ích, là một sự thay đổi lớn trong nhận thức của chúng ta về thế giới xung quanh. Định nghĩa này cho thấy có thể xem mỗi con người cũng là một sản phẩm, một thương hiệu; đồng thời xây dựng thương hiệu cũng đi đôi với xây dựng sản phẩm là vì vậy. Tóm lại Marketing cần phải ‘định nghiã sản phẩm nhìn từ bên ngoài vào theo quan điểm của khách hàng’ chứ không phải định nghĩa sản phẩm từ bên trong như định nghĩa sản phẩm theo cách thông thường của nhà sản xuất.
 

Phẫu hình ảnh thương hiệu là gì?

 
Trả lời: Phẫu hình ảnh thương hiệu (brand image diagnosis) là phương pháp phân tích hình ảnh, giá trị thương hiệu toàn diện, bao gồm cả gía trị lợi ích của sản phẩm chứa bên trong thương hiệu. Quy trình cần thiết để thực hiện, áp dụng phẫu hình ảnh trong thực tế là hệ thống theo dõi sức khỏe thương hiệu (brand health monitoring, brand health tracking) do một số công ty nghiên cứu thị trường hàng đầu thực hiện. Phương pháp quản trị thương hiệu theo phẫu hình ảnh là công cụ đạt mức độ rất cao về chuyên môn, trong đó bao gồm các khái niệm của brand audit, pull&push và các công cụ khác trong quản trị thương hiệu. Vì vậy những thương hiệu lớn thường áp dụng triệt để công cụ phẫu hình ảnh.
 
Điểm khác biệt rõ nhất của các phương pháp nghiên cứu, chuẩn đoán, quản trị hình ảnh thương hiệu như trên đó là khả năng lượng hoá từng thành tố hình ảnh, hoặc giá trị thương hiệu (brand image attributes).
 

Branding khác với Brand Marketing như thế nào?

 
Trả lời: Branding là khái niệm thiên về phần hình thức, hình ảnh thương hiệu, cụ thể hơn là khuếch trương hệ thống nhận diện thương hiệu. Branding thường không chú ý đến nghiên cứu phát triển sản phẩm, thường là chấp nhận một sản phẩm hiện hữu để nâng cấp thành thương hiệu. Branding vì vậy không đưa ra được các giải pháp lý tính và tập trung khai thác giá trị cảm tính. Các nhà tư vấn chuyên nghiệp như Interbrand và Landor vẫn tập trung Branding chứ chưa lột tả hết ý nghĩa chiến lược sâu xa từ sản phẩm.
 
Brand Marketing đề cập xâu sắc hơn về khái cạnh chiến lược (strategic brand management) và quản trị thương hiệu với ý nghĩa là một chiến lược marketing tổng thể, ít nhất ở cấp độ giải pháp toàn diện 4P, hoặc cao hơn là 7P (mô hình của Võ Văn Quang). Lưu ý trong lý thuyết Brand Marketing, chúng tôi đã định nghĩa lại "thương hiệu chính là đỉnh cao của sản phẩm". Brand Marketing vì vậy, rất chú trọng vào sản phẩm (theo ý nghĩa toàn diện của nó).
 
Tóm lại Branding đi sâu hơn vào chiến lược hình ảnh thương hiệu, còn Brand Marketing là chiến lược tổng thể.
 

Brand Marketing khác với Product Marketing như thế nào?

 
Trả lời: Marketing hiện đại hình thành từ khái niệm vòng đời sản phẩm, tuy nhiên cho đến nay, nhận thức vòng đời sản phẩm được thay thế bằng cách phát triển lên thành mô hình chuỗi những vòng đời sản phẩm nối tiếp nhau tạo ra thương hiệu, mà chúng tôi hay gọi là mô hình James Bond 007. Có rất nhiều điểm khác nhau khác, chẳng hạn như khái niệm định vị: "định vị sản phẩm" trong product marketing chỉ là 1 trong 4 nhóm giải pháp của khái niệm định vị toàn diện trong brand marketing, bao gồm (1) định vị sản phẩm, (2) định vị giá, (3) định vị phân phối, (4) định vị quảng bá & hình ảnh thương hiệu.
 
Lý thuyết marketing ban đầu chưa chú trọng thương hiệu và dừng ở mức độ nghiên cứu vòng đời sản phẩm, lý thuyết brand marketing xác lập chiến lược chuỗi các vòng đời sản phẩm nối tiếp nhau. Brand Marketing nhắm đến ‘hoàn thiện sản phẩm đạt cấp độ thương hiệu’ khai thác thương hiệu cả 2 mục đích ngắn hạn và dài hạn. Ở mục đích ngắn hạn brand marketing xây dựng thương hiệu để đạt doanh số bán hàng, ở mục đích dài hạn là khai thác giá trị thương hiệu cho việc mở rộng sản phẩm mới, thị trường mới.
 
Brand Marketing cũng là nền tảng lý thuyết cho việc xây dựng khái niệm Kinh tế Thương hiệu (Brand Economy). Quý vị có thể xem thêm bài viết Nền Kinh tế Thương hiệu trên vnbrand.net và vovanquang.com
 

Chiến lược P3&P4 là gì?

 
Trả lời: Dựa trên 4 yếu tố cơ bản của marketing, P3&P4 là yếu tố chiến lược chú trọng Phân phối và Phát triển Thương hiệu do P4 theo định nghĩa mới của brand marketing được hiểu là brand promotion chứ không phải là quảng bá sản phẩm. Trong chiến lược P3&P4 người ta xác lập ý đồ chiến lược là một hệ thống phân phối với thương hiệu mạnh; thậm chí nếu cần thiết có thể chuyển giao khâu sản xuất (đại trà) cho các đối tác gia công. Điển hình của chiến lược này là Nike, Adidas... và tại Việt Nam đó là Trung Nguyên, VERA.
 
Tư duy chủ đạo của chiến lược P3 & P4 giúp nâng cao giá trị cho những ngành nghề mà vốn trước đây chỉ thiên về sản phẩm thô và gia công như ngành thủy hải sản, may mặc, khai thác nguyên liệu thô (vd: cao su) bằng phương thức nâng cao giá trị sản phẩm theo hướng chế biến sâu và tạo ra sản phẩm đầu cuối (end-product) đồng thời nâng tầm sản phẩm trở thành thương hiệu đích thực và kết hợp với chiến lược phân phối chuyên nghiệp, từ đó hình thành cá6u trúc chiến lược mà trong đó 2 nhóm giải pháp chủ đạo là ‘xây dựng thương hiệu’ và ‘phát triển phân phối’.
 

Chiến lược Kéo và Đẩy

 
Về mặt quản trị thương hiệu, mô hình P3&P4 song khớp với mô hình Kéo và Đẩy cũng do chuyên gia thương hiệu thiết lập và đưa vào sử dụng trong những năm qua.
 
Chiến lược P3&P4 cũng là chiến lược cơ sở hữu ích cho các sales manager. Khi quản lý một địa bản thị trường cụ thể, sales manager có thể dùng mô hình P3&P4 và mô hình Kéo & Đẩy phân tích lượng hoá nhóm các chỉ số Nhận biết (brand awareness) và Hình ảnh (brand image attribues) để đo Lực kéo và đo các chỉ số Phân phối như Độ phủ (coverage), Mức sẵn có sản phẩm (availability) và mức nhìn thấy thương hiệu (brand visibility) để đo Lực Đẩy.

dinhvithuonghieu.com

Bài khác

Bài viết mới